Phát triển CAC Sabre

Năm 1951, CAC đạt được thỏa thuận để có giấy phép chế tạo F-86. Phiên bản do CAC chế tạo sẽ sử dụng động cơ phiên bản Rolls-Royce Avon R.A.7. Phiên bản động cơ này được thiết kế lại phần thân khiến nó ngắn hơn, rộng hơn và nhẹ hơn so với động cơ General Electric J47 được trang bị trên các máy bay do North American chế tạo. Vì động cơ thay đổi nên nó thường được gọi là Avon Sabre. Để phù hợp với động cơ Avon, trên 60% thân máy bay đã được thiết kế lại cùng với phần khe hút gió được mở rộng thêm 25% kích thước. Một thay đổi quan trọng khác là việc thay thế 6 khẩu súng máy của F-86F bằng 2 khẩu pháo ADEN 30 mm, ngoài ra còn thay đổi buồng lái và tăng khả năng chứa nhiên liệu.

A94-964 và A94-982 (Mk 32) tại Thái Lan vào đầu thập niên 1960.A94-901 (Mk 30), CAC Sabre lô sản xuất đầu tiên, sơn màu của đội biểu diễn "Black Panthers" phi đoàn 76 RAAF.CAC Sabre Mk 32 (A94-983) trưng bày tại Bảo tàng hàng không TemoraCAC Sabre Mk 30 (A94-923) tại Bảo tàng Hàng không Prague, Kbely.Bảo tàng Không quân Indonesia với mẫu trưng bày Mk 32 (TS-8603, RAAF serial A94-368) sơn màu của không quân Indonesia.

Mẫu thử (có tên định danh CA-26 Sabre) bay lần đầu ngày 3/8/1953. Máy bay thành phẩm có tên định danh là CA-27 Sabre và được bàn giao cho Không quân Hoàng gia Australia (RAAF) bắt đầu từ năm 1954. Lô CA-27 đầu tiên được trang bị động cơ Avon 20 và được định danh là Sabre Mk 30. Từ năm 1957 đến 1958 lô CA-27 này có vài sửa đổi nhỏ ở phần cánh và lại được tái định danh thành Sabre Mk 31. Sau đó có thêm một lô 20 chiếc Sabre mới được bổ sung. Lô máy bay cuối cùng được định danh là Sabre Mk 32 và sử dụng động cơ Avon 26.